“Quan hệ giữa Luật sư với đồng nghiệp là sự tương tác, chân thành, thấu
hiểu giữa những người cùng làm Nghề Luật sư. Bản chất của quan hệ giữa các luật
sư với đồng nghiệp: thuộc về phạm trù đạo đức nhiều hơn. Có tình đồng nghiệp,
các Luật sư luôn có sự tôn trọng, hợp tác, giúp đỡ, bảo vệ lẫn nhau. Tình trạng kỳ
thị, chèn ép, phân biệt đối xử giữa các Luật sư đồng nghiệp sẽ không xảy ra, qua đó
khẳng định vị thế nghề Luật sư được xã hội ghi nhận, tôn vinh.
Pháp luật về luật sư không có nhiều quy phạm điều chỉnh mối quan hệ giữa
luật sư và đồng nghiệp. Đạo đức và Ứng xử của Luật sư trong quan hệ với đồng
nghiệp được hướng dẫn và quy định cụ thể, chi tiết tại Bộ Quy tắc Đạo đức và Ứng
xử nghề Luật sư Việt Nam (ban hành kèm theo Quyết định số 201/QĐ-HĐLSTQ
ngày 13/12/2019 của Hội đồng Luật sư Toàn quốc), tại Chương III – Quan hệ đồng
nghiệp giữa các Luật sư, gồm 19 quy tắc (từ Quy tắc 17 tới Quy tắc 25).”
Tình đồng nghiệp trong nghề luật sư dựa trên nền tảng coi uy tín của đồng
nghiệp và uy tín của giới là uy tín của chính mình, điều mình không muốn thì không
được làm với đồng nghiệp. Trong Bộ Quy tắc Đạo đức và ứng xử nghề Luật sư Việt
Nam (Bộ Quy tắc) hiện hành quy định các quy tắc đạo đức mà người luật sư bắt
buộc phải tuân theo trong ứng xử với đồng nghiệp. Các quy tắc này sẽ chính là
khuôn mẫu để luật sư tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của mình. Từ đó, tạo nên tình
đồng nghiệp tốt đẹp, nâng tầm giá trị của giới luật sư, tạo nền tảng cho sự phát triển
vững mạnh của giới luật sư Việt Nam.
“Trong giao tiếp, hành nghề luật sư, luật sư phải tôn trọng lẫn nhau, không
phân biệt tuổi tác và thời gian hành nghề.”. Quy tắc 17 điều chỉnh hành vi của luật
sư trong các tình huống thể hiện tình cảm đồng nghiệp để các luật sư có thái độ ứng
xử chuẩn mực, thể hiện truyền thống đạo đức của nghề luật sư. Bên cạnh đó, “Luật
sư không để tình đồng nghiệp bị chi phối bởi kết quả thắng – thua trong hành nghề
hoặc các quan hệ xã hội khác làm ảnh hưởng đến tình đoàn kết của giới luật sư”.
Nhiều người nhầm tưởng ra Tòa án phải có bên thắng – bên thua nên sẽ có luật sư
3
thắng kiện, luật sư thua kiện nhưng đấy cũng chỉ là sự nhầm tưởng. Bởi lẽ, luật sư là
người cung cấp dịch vụ pháp lý, đại diện cho khách hàng nhằm bảo vệ quyền và lợi
hợp pháp họ; quyết định cuối cùng sẽ do Tòa án quyết định trên tinh thần thượng
tôn pháp luật. Luật sư ở hai phía hoàn toàn không có sự đối đầu lẫn nhau. Tất cả đều
với một mục tiêu góp phần bảo vệ công lý; quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân,
cơ quan, tổ chức.
Tôn trọng có nghĩa là sự đánh giá đúng mực và coi trọng danh dự, phẩm giá,
lợi ích của người khác. Tôn trọng người khác cũng là cách thể hiện sự tôn trọng bản
thân. Đạo đức và ứng xử nghề Luật sư trong quan hệ với đồng nghiệp đòi hỏi Luật
sư phải tôn trọng đồng nghiệp. Vì vậy Quy tắc 18 trong Bộ Quy tắc yêu cầu sự tôn
trọng, hợp tác giữa Luật sư với đồng nghiệp phải đảm bảo quyền lợi của mỗi Luật
sư và không làm ảnh hưởng đến uy tín nghề Luật sư. Tình đồng nghiệp giữa Luật sư
với nhau chỉ có được khi Luật sư thật sự tôn trọng, hợp tác với đồng nghiệp.
Đối với Nghề Luật sư, việc tôn trọng, bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín của
đồng nghiệp là nghĩa vụ bắt buộc, không có ngoại lệ. Đây là nguyên tắc cơ bản điều
chỉnh ứng xử nghề nghiệp của Luật sư với đồng nghiệp, là nền tảng đạo đức tạo lập
tình đồng nghiệp của Luật sư Việt Nam. Luật sư không vì lợi ích cá nhân mà hy
sinh lợi ích tập thể; không vì lợi ích cá nhân mà xâm phạm uy tín nghề Luật sư.
Trách nhiệm tôn trọng và hợp tác với đồng nghiệp trong Bộ Quy tắc Đạo đức
và ứng xử nghề Luật sư Việt Nam không những yêu cầu Luật sư không được thực
hiện hành vi xâm phạm lợi ích của đồng nghiệp, xúc phạm đồng nghiệp mà Luật sư
cần góp ý kịp thời khi thấy đồng nghiệp làm điều sai trái, ảnh hưởng đến uy tín
nghề Luật sư. Luật sư cần góp ý khi đồng nghiệp có thái độ và hành vi, ứng xử chưa
phù hợp. Luật sư có trách nhiệm với đồng nghiệp, trách nhiệm với nghề, không vô
cảm, vô trách nhiệm trước vi phạm, sai phạm của đồng nghiệp.
Không ngành nghề nào không có sự cạnh tranh nhưng cạnh tranh nghề
nghiệp trong nghề luật sư là sự cạnh tranh giữa các luật sư, giữa các tổ chức hành
nghề luật sư trong hoạt động nghề nghiệp thể hiện qua các biện pháp, phương thức
nhất định được điều chỉnh bởi Quy tắc 19 “Luật sư không thực hiện các hành vi
cạnh tranh không lành mạnh ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của đồng
nghiệp.”. Cạnh tranh nghề nghiệp của Luật sư với đồng nghiệp là khách quan tất
yếu. Cạnh tranh lành mạnh giúp tránh xảy ra mâu thuẫn giữa các luật sư, từ đó làm
đẹp hơn hình ảnh của người luật sư trong mắt người dân, tạo dựng niềm tin của
khách hàng và công chúng đối với giới luật sư, thúc đẩy nghề luật sư Việt Nam phát
triển. Cùng sự phát triển đa dạng của nghề nghiệp, cạnh tranh của Luật sư với đồng
nghiệp sẽ ngày càng quyết liệt nhất là trong môi trường hội nhập luật pháp quốc tế
hiện nay.
Khi có tranh chấp quyền lợi với đồng nghiệp, luật sư cần thương lượng, hòa
giải để giữ tình đồng nghiệp; chỉ thực hiện việc khiếu nại, khởi kiện đồng nghiệp
khi việc thương lượng, hòa giải không có kết quả. Bộ Quy tắc quy định nguyên tắc
giải quyết trong trường hợp xảy ra tranh chấp giữa các luật sư với nhau thông qua
4
việc quy định thể hiện thiện chí thương lượng, hòa giải để giữ tình đồng nghiệp khi
xảy ra tranh chấp và trước khi khiếu nại, khởi kiện.
Ngoài ra, trong quá trình hành nghề Luật sư, Bộ quy tắc cũng quy định rõ
những quy tắc ứng xử của Luật sư hành nghề với tư cách cá nhân, Luật sư với người
tập sự hành nghề luật sư, Luật sư với tổ chức xã hội – nghề Luật sư được quy định
chi tiết tại Quy tắc 23, 24, 25.
Tình đồng nghiệp Luật sư hình thành và phát triển trước hết và chủ yếu
thông qua hoạt động hành nghề của Luật sư, phát sinh từ các hoạt động mang tính
chất nghiệp vụ của Luật sư, trong đó bao gồm cả các nghiệp vụ khi tham gia tiến
hành tố tụng. Do đó pháp luật luật sư và các pháp luật khác liên quan vẫn cần tôn
trọng và tuân theo các quy tắc ứng xử của nghề luật sư. Quy tắc 26, 27 tại Bộ Quy
tắc hiện hành quy định về quy tắc ứng xử của Luật sư khi tham gia tố tụng, cũng
như những quy định ứng xử tại phiên tòa. Do Luật sư thường xuyên tiếp xúc với cơ
quan, người tiến hành tố tụng nên Bộ Quy tắc đòi hỏi mỗi Luật sư phải có thái độ
ứng xử đúng mực, văn minh, không có những lời nói hoặc việc làm mà ảnh hưởng
đến uy tín, lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân liên quan. Từ đó, xác lập được
mối quan hệ đúng đắn, tích cực giữa Luật sư với các cơ quan, người tiến hành tố
tụng. Đây cũng là cách cải thiện môi trường pháp lý lành mạnh, giúp thúc đẩy hoạt
động Luật sư đi lên, tạo ra không khí làm việc thuận lợi, hài hòa ở các cơ quan tiến
hành tố tụng, tổ chức góp phần thúc đẩy đời sống pháp lý ngày càng phát triển,
nâng cao.
Việc giữ gìn, vun đắp mối quan hệ đồng nghiệp trong nghề luật sư có ý nghĩa
rất quan trọng đối với cả bản thân của người luật sư nói riêng và giới luật sư nói
chung là quy tắc ứng xử chung với giới luật sư. Đối với bản thân của người luật sư,
việc giữ gìn và vun đắp mối quan hệ đồng nghiệp sẽ giúp tăng thêm uy tín của luật
sư, tạo các mối quan hệ giúp luật sư dễ dàng hơn trong quá trình hành nghề, từ đó
góp phần cho việc phát triển sự nghiệp của luật sư trong tương lai. Đối với giới luật
sư, việc giữ gìn, vun đắp mối quan hệ đồng nghiệp chính là yếu tố quan trọng làm
tăng uy tín của giới luật sư, tạo nên sự đoàn kết trong giới luật sư, góp phần vào sự
phát triển vững mạnh của giới luật sư.
Vì sự phát triển chung, nâng tầm giá trị giới luật sư Việt Nam, ngoài yêu cầu
tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng và phát triển đội ngũ Luật sư có
bản lĩnh chính trị vững vàng, đạo đức nghề nghiệp trong sáng, am hiểu pháp luật,
giỏi về kỹ năng hành nghề và ngoại ngữ, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp trong
thời kỳ mới. Việc xây dựng tình đồng nghiệp trong nghề luật sư là yếu tố đủ để xây
dựng khẳng định luật sư là một cơ quan tố tụng độc lập trong lĩnh vực tư pháp.